• Trong thời gian sắp tới, những tài khoản đăng thông tin về Casino, cá độ, cờ bạc, hàng giả, hàng nhái, và những mặc hàng trái với pháp luật Việt Nam sẽ bị Ban ( khóa tài khoản và xóa bài đăng ) mà không cần báo trước. Vì vậy, nếu tài khoản của bạn có những nội dung trái pháp luật, vui lòng xóa những tin đó hoặc bị Ban ( khóa tài khoản ). Cảm ơn các bạn đã sử dụng website.
shopee sale

Hà Nội Thế nào là đối tượng của quyền liên quan

mlawkey

Thành viên mới
Tham gia
4 Năm 9 Tháng
Bài viết
23
Tuổi
26
Khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: “Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”.
Như vậy quyền liên quan là một thuật ngữ được hiểu là nó phải liên quan đến quyền tác giả, hay nói cách khác nhất thiết nó chỉ được phát sinh trên cơ sở đã tồn tại một/những tác phẩm trước đó.
Nhưng Khoản 3 Điều 16 lại quy định: “Tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác”. Như vậy các âm thanh, hình ảnh khác trong quy định này có thể được hiểu là âm thanh, hình ảnh không liên quan đến quyền tác giả, ví dụ một người ghi tiếng chim kêu, vượn hót, hình hươu, nai nhảy múa trong rừng hoặc bản ghi hình một trận đấu thể thao… thì theo Khoản 3 Điều 16 được bảo hộ theo quyền liên quan, nhưng bản ghi âm, ghi hình này lại không hề liên quan gì đến quyền tác giả, không được phát sinh trên cơ sở đã tồn tại tác phẩm bất kỳ nào trước đó. Thực chất bản ghi âm, ghi hình này là một tác phẩm nghệ thuật (nếu nó thỏa mãn định nghĩa tác phẩm nghệ thuật – nhưng rất tiếc Luật Sở hữu trí tuệ cũng không định nghĩa cụ thể tác phẩm, trong đó có tác phẩm nghệ thuật), bởi vậy nó được bảo hộ quyền tác giả chứ không phải được bảo hộ theo quyền liên quan).
Đây là vấn đề quan trọng cần phải bàn đến việc này, bởi lẽ việc phân định quyền tài sản khi bảo hộ theo quyền tác giả hay quyền liên quan rất khác nhau.
Mặt khác, Luật không định nghĩa thế nào là bản ghi hình nên không thể xác định được đối tượng bảo hộ, bởi vậy có thể nhầm lẫn bản ghi hình với tác phẩm điện ảnh theo quy định tại điều 14 Nghị định 22/2018/NĐ-CP: “Tác phẩm nhiếp ảnh quy định tại điểm h khoản 1 điều 14 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 là tác phẩm thể hiện hình ảnh thế giới khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra, hay có thể được tạo ra bằng các phương pháp hóa học, điện tử hoặc phương pháp kỹ thuật khác. Tác phẩm nhiếp ảnh có thể có chú thích hoặc không có chú thích."
Để tránh việc đồng nhất bản ghi âm, ghi hình với tác phẩm điện ảnh và cũng để minh họa cho quy định tại Khoản 3 Điều 4 của Luật, Khoản 6 Điều 3 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết: “Bản ghi âm, ghi hình là bản định hình các âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác hoặc việc định hình sự tái hiện lại các âm thanh, hình ảnh không phải dưới hình thức định hình gắn với tác phẩm điện ảnh hoặc tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự".
Như vậy, theo Khoản 3 điều 16, nếu:
- Bản ghi hình được định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn thì được bảo hộ quyền liên quan;
- Bản ghi hình được định hình lần đầu các âm thanh, hình ảnh khác thì được coi là một tác phẩm và được bảo hộ quyền tác giả.
Cũng cần bàn thêm là khi đưa bản ghi hình là một đối tượng của quyền liên quan, Luật đã đưa thêm một đối tượng mới vào phạm vi bảo hộ, mà cho đến nay chưa có một điều ước quốc tế nào quy định.
Nội dung có thể tham khảo: đăng ký tên thương hiệu.
 

Ứng dụng tiện ích

thiết kế catalogue giá rẻ




Back
Top